Nội
dung của sách giáo trình này bao gồm 6 bài lớn: Đối tượng và nhiệm vụ
của đạo đức học Mác Lê nin; Nguồn gốc vai trò chức năng của đạo đức; các
kiểu đạo đức trong lịch sử, quan hệ giữa đạo đức với các hình thái ý
thức xã hội khác; một số phạm trù cơ bản của đạo đức học;những nguyên
tắc của đạo đức mới và tính quy luật của sự hình thành đạo đức mới; một
số vấn đề xây dựng đạo đức mới trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở việt nam. Tài liệu gồm 80 trang, đầy đủ mục lục tự
động, bản đẹp. Nội dung điển hình trong tài liệu:
BÀI 1 ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐẠO ĐỨC HỌC MÁC - LÊNIN
I. ĐẠO ĐỨC VÀ CẤU TRÚC CỦA ĐẠO ĐỨC.
1. Khái niệm đạo đức.
Với
tư cách là một bộ phận của tri thức triết học, những tư tưởng đạo đức
học đã xuất hiện hơn 26 thế kỷ trước đây trong triết học Trung Quốc, Ấn
Độ, Hy Lạp cổ đại.
Danh
từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng La tinh là mos (moris) - lề thói,
(moralis nghĩa là có liên quan đến lề thói, đạo nghĩa). Còn “luân lí” thường xem như đồng nghĩa với “đạo đức” thì
gốc ở chữ Hy Lạp là ấthicos nghĩa là lề thói; Tập tục. Hai danh từ đó
chứng tỏ rằng, khi ta nói đến đạo đức, tức là nói đến những lề thói tập
tục và biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người và người trong sự giao
tiếp với nhau hàng ngày. Sau này người ta thường phân biệt hai khái
niệm, moral là đạo đức, còn Ethicos là đạo đức học. Ở phương đông, các
học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ đại bắt nguồn từ cách hiểu
về đạo và đức của họ. Đạo là một trong những phạm trù quan trọng nhất
của triết học trung Quốc cổ đại. Đạo có nghĩa là con đường, đường đi, về
sau khái niệm đạo được vận dụng trong triết học để chỉ con đường của tự
nhiên. Đạo còn có nghĩa là con đường sống của con người trong xã hội.
Khái
niệm đạo đức đầu tiên xuất hiện trong kinh văn đời nhà Chu và từ đó trở
đi nó được người Trung Quốc cổ đại sử dụng nhiều. Đức dùng để nói đến
nhân đức, đức tính và nhìn chung đức là biểu hiện của đạo, là đạo nghĩa,
là nguyên tắc luân lý. Như vậy có thể nói đạo đức của người Trung Quốc
cổ đại chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà
mỗi người phải tuân theo.
Ngày
nay, đạo đức được định nghĩa như sau: Đạo đức là một hình thái ý thức
xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm
điều chỉnh cách đánh giá
và cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã
hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi sức mạnh của truyền
thống và sức mạnh của dư luận xã hội.
Trong
định nghĩa này có mấy điểm cần chú ý sau: 1 Đạo đức với tư cách là một
hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, phán ánh hiện thực đời
sống đạo đức xã hội.
Xã hội học trước Mác không thể giải quyết một cách khoa học vấn đề nguồn gốc và thực chất của đạo đức. Nó xuất phát từ “mệnh lệnh của thượng đế”, “ý niệm tuyệt đối, lý tính trừu tượng”,
bản tính bất biến của loài người,…chứ không xuất phát từ điều kiện sinh
hoạt vật chất của xã hội, từ quan niệm xã hội hiện thực xã hội để suy
ra toàn bộ lĩnh vực tư tưởng trong đó có tư tưởng đạo đức. Theo Mác và
Ăngghen, trước khi sáng lập các thứ lý luận và nguyên tắc bao gồm cả
triết học và luân lí học, con người đã hoạt động, tức là đã sản xuất ra
các tư liệu
vật chất cần thiết cho đời sống. Ý thức xã hội của con người là phản
ánh tồn tại xã hội của con người. Các hình thái ý thức xã hội khác nhau
tuỳ theo phương thức phản ánh tồn tại xã hội và tác động riêng biệt đối
với đời sống xã hội. Đạo đức cũng vậy, nó là hình thái ý thức xã hội
phản ánh một lĩnh vực riêng biệt trong tồn tại xã hội của con người. Và
cũng như các quan điểm triết học, chính trị, nghệ thuật, tôn giáo điều
mang tính chất của kiến trúc thượng tầng. Chế độ kinh tế xã hội là nguồn
gốc của quan điểm này thay đổi theo cơ sở đã đẻ ra nó. Ví dụ: Thích ứng
với chế độ phong kiến, dựa trên cơ sở bóc lột những người nông nô bị
cột chặt vào ruộng đất là đạo đức chế độ nông nô. Thích ứng với chế độ
tư bản, dựa trên cơ sở bóc lột người công nhân làm thuê là đạo đức tư
sản. Chế độ xã hội chủ nghĩa tạo ra một nền đạo đức biểu hiện mối quan
hệ hợp tác trên tình đồng chí và quan hệ tương trợ xã hội chủ nghĩa của
những người lao động đã được giải phóng khỏi ách bóc lột. Như vậy, sự
phát sinh và phát triển của đạo đức, xét đến cùng là một quá trình do sự
phát triển của phương thức sản xuất quyết định.
-
Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi của con người. Loài người
đã sáng tạo ra nhiều phương thức điều chỉnh hành vi con người: Phong
tục, tập quán, tôn giáo, pháp luật, đạo đức…Đối với đạo đức, sự đánh giá
hành vi con người theo khuôn khép chuẩn mực và qui tắc đạo đức biểu
hiện thành những khái niệm về thiện và ác, vinh và nhục, chính nghĩa và
phi nghĩa. Bất kỳ trong thời đại lịch sử nào, người ta cũng đều được đánh giá
như vậy. Các khái niệm thiện ác, khuôn khép và qui tắc hành vi của con
người thay đổi từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, từ dân tộc này sang dân
tộc khác. Và trong xã hội có giai cấp thì bao giờ cũng biểu hiện lợi ích
của một giai cấp nhất định. Những khuôn khép (chuẩn mực) Và qui tắc đạo
đức là yêu cầu của xã hội hoặc của một giai cấp nhất định đề ra cho
hành vi mỗi cá nhân. Nó bao gồm hành vi của cá nhân đối với xã hội (đối
với tổ quốc, nhà nước, giai cấp mình và giai cấp đối địch…) Và đối với
người khác.
Những
chuẩn mực và quy tắc đạo đức nhất định được công luận của xã hội, hay
một giai cấp, dân tộc thừa nhận. Ở đây quan niệm của cá nhân về nghĩa vụ
của mình đối với xã hội và đối với người khác (khuôn khép hành vi) Là
tiền đề của hành vi đạo đức của cá nhân. 2Đã là một thành viên của xã
hội, con người phải chịu sự giáo dục nhất định về ý thức đạo đức, một sự đánh giá
đối với hành vi của mình và trong hoàn cảnh nào đó còn chịu sự khiển
trách của lương tâm…Cá nhân phải chuyển hóa những đòi hỏi của xã hội và
những biểu hiện của chúng thành nhu cầu, mục đích và hứng thú trong hoạt
động của mình. Biểu hiện của sự chuyển hóa này là hành vi cá nhân tuân
thủ những ngăn cấm, những khuyến khích, những chuẩn mực phù hợp với
những đòi hỏi của xã hội…Do vậy sự điều chỉnh đạo đức mang tính tự
nguyện, và xét về bản chất, đạo đức là sự lựa chọn của con người.
...........................
III. ĐẠO ĐỨC NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM.
1. Đạo đức đối với cán bộ
Cán bộ là “Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người thường, không có chức vụ”.
Ở nước ta, trong các thời kỳ cách mạng, cán bộ luôn là vấn đề nổi lên
hàng đầu và giữ vai trò hết sức trọng yếu. Nó chẳng những có ý nghĩa
quyết định đối với công tác xây đựng Đảng mà còn là nhân tố quyết định
sự thành bại của cách mạng. Lênin cho rằng: “Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị nếu nó không đào tạo
ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu
tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào. Chủ tịch Hồ
Chí Minh nói: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc và muôn việc thành
công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”.
Cán
bộ là người định ra đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà
nước, đồng thời là người đưa chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước
đến với nhân dân, vận động, tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi các mục
tiêu đề ra, đưa đất nước ngày càng phát triển và tiến bộ. Do vậy, trong
mỗi giai đoạn cần có một đội ngũ cán bộ thích ứng, vừa có phẩm chất đạo
đức vừa có năng lực để đáp ứng được sự đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng.
Trong
sự phát triển kinh tế - xã hội hiện nay đạo đức cần phải được nhấn mạnh
trong mỗi con người, đặc biệt đối với đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước
và các tổ chức đoàn thể quần chúng.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã dạy: Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã
hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất
nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp và gian khổ. Sức có mạnh mới
gánh được nặng và đi được xa.
Người cán bộ phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang.
Nghị
quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng chỉ ra công tác
cán bộ trong thời kỳ mới rất nặng nề: Chúng ta phải chủ dộng xây dựng
đội ngũ cán bộ ngang tầm thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, góp phần thực hiện hai 72nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Những yêu cầu định ra về phẩm chất đạo đức
của người cán bộ hiện nay là:
Một
là, có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có kết
quả đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Hai
là, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, không tham nhũng và kiên
quyết đấu tranh chống tham nhũng, có ý thức tổ chức, kỷ luật, trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm.
Ba là, có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng và pháp luật
của Nhà nước, có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng lực và sức khỏe
để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Các tiêu chuẩn
nói trên có quan hệ mật thiết với nhau, coi trọng cả đức lẫn tài, trong
đó đức là gốc. Cán bộ ở cấp càng cao thì càng phải gương mẫu, càng phải gìn giữ phẩm chất đạo đức.
Cũng
cần phải thấy rằng, trong điều kiện nền kinh tế đất nước vận hành theo
cơ chế thị trường, một bộ phận không nhỏ cán bộ thoái hóa về phẩm chất
chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, buôn lậu, lãng phí, quan liêu
thì việc nhấn mạnh đức là gốc theo tư tưởng của Bác Hồ là hoàn toàn có ý
nghĩa thực tiễn và cần thiết. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là
xem nhẹ tài. Bởi vì, không xây dựng đội ngũ cán bộ có tài thì cũng không
thể thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Hơn nữa, đức ở đây bao gồm phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống,
phong cách làm việc.
Người có bản lĩnh chính trị vững vàng là người có cả đức và tài, là sự thống nhất giữa đức và tài.
2. Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, xây dựng đạo đức cách mạng.
Hồ
Chí Minh là người tài đức song toàn. Dân tộc Việt Nam và nhân loại tiến
bộ mãi mãi tự hào về Hồ Chí Minh - Người anh hùng giải phóng dân tộc và
danh nhân văn hóa thế giới.
Những
phẩm chất đạo đức cao quý ở Hồ Chí Minh về tinh thần cách mạng cao cả,
suốt đời phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, về đức khiêm tốn, giản dị,
cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; Mãi mãi là tấm gương sáng về nhân
cách cho các thế hệ hôm nay và mai sau học tập.
Xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã đánh giá
rất cao vai trò và sức mạnh của đạo đức cách mạng. Theo Người đạo đức
là nền tảng của 73người cách mạng cũng giống như gốc của cây, ngọn nguồn
của sông của suối. Người vẫn thường nói, người cách mạng phải có đạo
đức cách mạng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng. Không có đạo đức
cách mạng thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân.
Đạo
đức cách mạng không chỉ là cái gốc của người cách mạng, mà còn là động
lực mạnh mẽ để người cách mạng đi đến cái trí. Và khi đã có trí, hiểu
biết về khoa học,
chủ nghĩa Mác, phương pháp cách mạng… thì cái đức chính là cái bảo đảm
cho người cách mạng giữ vững được chủ nghĩa mà mình đã giác ngộ, đã đi
theo.
Sự
nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp to lớn, khó
khăn và nặng nề, con đường đi đến độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là
con đường dài, không phải là một đại lộ thẳng tắp. Do đó, đạo đức cách
mạng giúp người cách mạng vững tin trên con đường đi tới mục tiêu của
mình. Có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ cũng không sợ sệt,
lùi bước. Do đó, chăm lo cái gốc, cái nguồn, cái nền tảng ấy phải là
công việc thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, của mỗi gia đình và mỗi
người trong xã hội.
Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh xây dựng đạo đức cách mạng chúng ta cần tập trung vào những nội dung chủ yếu sau đây:
Một
là, trung với nước, hiếu với dân, suốt đời chiến đấu hi sinh vì độc lập
tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và hạnh phúc của nhân dân.
Trung
và hiếu là hai khái niệm cơ bản, là trọng tâm của tư tưởng đạo đức Nho
giáo. Ở đó trung là trung với vua và hiếu với cha mẹ; Đã được Hồ Chí
Minh mở rộng ra phạm vi xã hội là trung với nước, hiếu với dân. Ở đây
nước là của dân và dân là chủ của nước. “Trung”, “hiếu” đã mang một chất lượng mới với ý nghĩa cách mạng, hết sức sâu sắc, vượt xa những giá trị đạo đức truyền thống Nho giáo.
Không
có gì quý hơn độc lập tự do suốt đời chiến đấu cho độc lập tự do, cho
hạnh phúc của nhân dân là tư tưởng đạo đức tiếp nối truyền thống đạo đức
của dân tộc ViệtNam, là phẩm chất đạo đức lớn nhất, cao nhất của con
người Việt Nam thời đại Hồ Chí
Minh.
Có
thể nói, chiến đấu vì độc lập tự do, vì hạnh phúc của nhân dân, là phẩm
chất nổi trội trong các phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh. Phẩm chất này đã
trở thành ý chí bất khuất, thành chủ nghĩa anh hùng, thành thái độ
không cam chịu nô lệ, “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước”.
Phẩm chất này đã trở thành bản lĩnh của người ViệtNam trước những thử
thách, khó khăn gian khổ, đã hóa thành lối sống có tình có nghĩa, 74có
thủy chung, có văn hóa – lối sống thắm đượm chủ nghĩa nhân đạo chiến
đấu. Phẩm chất này đã ảnh hưởng rất lớn và sâu sắc trong cộng đồng người
Việt Nam, trong sự tập hợp sức mạnh Việt Nam và sức mạnh nhân loại.
Chiến
đấu vì độc lập tự do vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân đã
hòa nhập với dòng chảy chung của ý thức đạo đức cao đẹp nhất của nhân
loại và nhân loại cũng đã cổ vũ nó, tiếp nhận nó, như là chính phẩm chất
và giá trị của mình. Vì vậy, ngày nay khi trên thế giới còn có những
đất nước, những bộ phận dân cư chưa được hưởng độc lập tự do, cơm no áo
ấm, chưa được học hành, hạnh phúc thì phẩm chất này ở tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh vẫn là khát vọng cháy bỏng, là chất men kích thích, là động
lực nội tại thúc đẩy nhân loại tiến lên, vươn tới.
Hai
là, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Cần, kiệm, liêm, chính,
chí công, vô tư là phẩm chất đạo đức cơ bản, được Hồ Chí Minh đề cập
thường xuyên vì nó gắn liền với hoạt động hàng ngày của mỗi người cách
mạng và quan hệ mật thiết với phẩm chất “Trung với nước, hiếu với dân”. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, theo Bác Hồ giải thích là:
Cần
là cần cù siêng năng, tăng năng suất trong công việc. Ví dụ trong sản
xuất quan trọng bậc nhất của cần là phát triển sản xuất. Phải lấy hiệu
quả của sản xuất mà đo ý chí cách mạng.
Kiệm là tiết kiệm, tức là không lãng phí thời gian, của cải của mình và của dân.
Nghĩa
là, chữ kiệm có nội dung khá toàn diện: Tiết kiệm thời gian, tiết kiệm
trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng, tiết kiệm ở cả xã hội và ở
mỗi cá nhân.
Liêm tức là không tham ô và luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của công, của nhân dân.
Liêm đã trở thành thước đo bản chất người, bản chất cách mạng của mỗi người.
Chính
là thẳng thắn, thấy điều phải dù nhỏ cũng phải làm, thấy trái dù nhỏ
cũng phải tránh. Khi nói tới chính, trước hết phải lấy mình làm đối
tượng.
Chí
công vô tư là đem lòng chí công, vô tư mà đối với người, với việc; Ham
làm những việc ích nước, lợi dân, không ham địa vị công danh, phú quý.
Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì
mình nên đi sau. Chí công vô tư là chăm lo việc nước như chăm lo việc
nhà. Như vậy chí công vô tư không phải là không chăm lo lợi ích riêng. Ở
đây Bác chỉ yêu cầu trong quan hệ lợi ích chung và riêng cần phải hài
hòa. Nghĩ đến lợi ích riêng nhưng cần ưu tiên lợi ích chung. Chủ tịch Hồ
Chí
Minh
cho rằng, chí công vô tư phải gắn liền với chống chủ nghĩa cá nhân,
theo Bác, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là giày xéo lên
lợi ích cá nhân. Mỗi người đều 75có tính cách riêng, sở trường riêng,
đời sống riêng của bản thân và của gia đình mình. Nếu những lợi ích cá
nhân không trái lợi ích tập thể thì không phải là xấu.
Cũng
cần phải thấy rằng, Hồ Chí Minh phê phán chủ nghĩa cá nhân, nhưng yêu
cầu giải quyết hài hòa lợi ích cá nhân và xã hội, không trù dập lợi ích
cá nhân, phải tôn trọng và phát triển cá nhân để chống chủ nghĩa cá
nhân.
Ba là, tu dưỡng đạo đức cách mạng suốt đời.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh “Đạo đức cách mạng không phải trên trời xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.
Cuộc sống luôn luôn vận động, biến đổi không ngừng. Do vậy, việc tu dưỡng, rèn luyện
đạo đức phải được tiến hành liên tục, không ngừng. Hôm nay có thể tốt,
có thể vĩ đại, nhưng ngày mai có thể biến chất, thoái hóa hư hỏng nếu
không tu dưỡng thường xuyên.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh cho rằng, thực tiễn cách mạng liên tục phát triển, con
người cách mạng và đạo đức cách mạng cũng phải tiến lên nếu không muốn
lạc hậu với cuộc sống. Nếu không tiến lên tức là thoái. Và nếu thoái thì
những thắng lợi đã đạt được sẽ không thể củng cố và phát triển.
Bốn là, nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức.
Bản
thân cuộc đời Hồ Chí minh là chuẩn mực tuyệt vời, một tấm gương ngời
sáng về sự nói đi đôi với làm, lý luận nhuần nhuyễn với thực tiễn. Người
đã diễn đạt những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin thành những
phương châm chỉ đạo hành động, những chuẩn mực, để rèn luyện đạo đức cho cán bộ, đảng viên.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh là Người vĩ đại khi nói về đạo đức, Người càng vĩ đại
khi thực hành đạo đức. Người không chỉ nói là làm, mà người còn nói ít
làm nhiều, và trên phương diện đạo đức phần nhiều người chỉ làm nhiều mà
không nói. Chính điều này hôm nay đang đòi hỏi chúng ta phải suy ngẫm
sâu sắc mới có thể khám phá được tầng sâu bản chất trong tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh.
Nói
đi đôi với làm, nêu tấm gương về đạo đức theo Hồ Chí Minh có liên quan
đến sự thành bại của cách mạng, sự sống còn của Đảng, của chế độ. Sự
thành công phần lớn là do cán bộ, vậy cán bộ phải cố gắng hơn mọi người,
để làm kiểu mẫu cho mọi người. Không có những tấm gương đạo đức thực tế, mọi tiêu chuẩn sẽ không còn giá trị gì hết. Chính vì vậy, cán bộ phải gương mẫu phải nêu tấm gương về nói đi đôi với làm.
Năm
là, xây đi đôi với chống. 76Trong cuộc sống hiện nay những hình tượng
tốt xấu, đúng sai vẫn còn đan xen, đối chọi, thúc đẩy, hoặc kìm hãm
nhau. Trong đó, cái tốt vẫn là dòng chính, dòng chủ đạo, những cái xấu
đang có nguy cơ lây lan, phát triển. Muốn phát triển cái tốt, muốn ngăn
chặn cái xấu, Hồ Chí Minh đòi hỏi phải kết hợp “xây” với “chống”, trong đó “xây” là nổi trội.
Theo Hồ Chí Minh, xây là xây dựng, học tập, tu dưỡng, rèn luyện những phẩm chất đạo đức cách mạng; Xây dựng chủ nghĩa tập thể, xây và nêu những tấm gương về đạo đức, những điển hình “Người tốt, việc tốt”, xây dựng tinh thần phụng sự Đảng, phụng sự
Tổ Quốc, phụng sự nhân dân. Xây dựng ý thức tổ chức kỷ luật, sự đoàn kết trong tổ chức, trong nhân dân. “Chống” là chống chủ nghĩa cá nhân, chống quan liêu, tham ô, lãng phí, chống thói “quan cách mạng”, chống kiêu ngạo, chống thói vô tổ chức, vô kỷ luật, mất đoàn kết.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn luôn chú trọng tới cả hai mặt “xây” và “chống” và trong “chống” có “xây” …Ở
đây xây là xây cái hay, cái đẹp, đồng thời cũng là chống cái dở, cái
xấu. Xây chủ nghĩa tập thể cũng đồng thời là chống chủ nghĩa cá nhân.
Ngược lại, chống tiêu cực là để khẳng định và xây cái tích cực, chống
tham ô, lãng phí, quan liêu – cũng chính là xây dựng liêm chính, tiết
kiệm hiệu quả.
Theo Hồ Chí Minh, muốn “xây” và “chống” có
kết quả phải kiên trì, kiên quyết, phải tạo ra các phong trào cách mạng
sôi động trong quần chúng. Các phong trào, các cuộc vận động “xây” và “chống” phải
cụ thể. Có phong trào, có cuộc vận động chung cho toàn Đảng, toàn dân,
nhưng cũng có phong trào, những cuộc vận động gắn với từng ngành, từng
giới, từng địa phương, từng lứa tuổi. Qua các phong trào, các cuộc vận
động mà lôi cuốn mọi người vào cuộc đấu tranh “xây” và “chống”.
Yêu cầu mỗi cá nhân, đảng viên phải có bản lĩnh, trung thực, quyết tâm
cao, thường xuyên cổ vũ, chiến đấu bồi đắp cho cái thiện, cái đẹp, cái
đúng, kiên quyết đấu tranh đẩy lùi cái xấu, cái sai, cái ác.
Sáu là, luôn luôn tự phê bình và phê bình.
Tự phê bình và phê bình là vũ khí sắc bén của Đảng, của mỗi cán bộ, đảng viên trong quá trình tu dưỡng, rèn luyện, xây dựng đạo đức cách mạng. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh là một mẫu
mực của tinh thần, phong cách macxit – lêninnít trong tự phê bình và
phê bình. Theo người, phê bình là nêu ưu điểm và vạch ra khuyết điểm của
đồng chí mình. Tự phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của mình.
Tự phê bình và phê bình phải đi đôi với nhau. Như vậy, theo Hồ Chí Minh
tự phê bình và phê bình có mục đích và ý nghĩa tốt đẹp để mọi người học
tập ưu điểm của nhau, để mọi người ngày càng đoàn kết, thống nhất, để
mọi người tiến bộ, trưởng thành. 77Hồ Chí Minh còn chỉ ra trong tự phê
bình và phê bình phải tến hành thường xuyên, triệt để, chỉ rõ nguyên
nhân, chỉ rõ biện pháp cụ thể để sữa chữa. Người luôn luôn nhắc nhở cán
bộ phải chống thói trước mặt thì nể, kể lể sau lưng. Nể nang không phê
bình khác nào thấy trên mặt đồng chí có nhọ mà không chỉ. Nể nang không
phê bình để cho đồng chí mình cứ sa vào lầm lỗi, đến nỗi hỏng việc. Thế
thì khác nào thấy đồng chí ốm mà không chữa cho họ.
Hồ
Chí Minh cho rằng, trong tự phê bình và phê bình, mỗi cán bộ, đảng viên
phải bắt đầu từ chính mình. Mỗi người nếu không bắt đầu đòi hỏi từ
chính bản thân mình, thì không có cơ sở để đòi hỏi người khác.
Thực
tiễn cho thấy, ở đâu tự phê bình và phê bình lặng đi, ở đó có chủ nghĩa
cá nhân có điều kiện phát triển. Chống chủ nghĩa cá nhân sẽ không có
hiệu quả nếu sao nhãng việc tự phê bình và phê bình một cách nghiêm túc
theo tinh thần, tư tưởng đạo đức
Hồ
Chí Minh. Hiện nay, trong điều kiện kinh tế thị trường, bên cạnh những
yếu tố tính cực cơ bản, đã nảy sinh những yếu tố tự phát, gây nhiều tiêu
cực và tệ nạn xã hội. Do đó việc nâng cao tinh thần đấu tranh phê bình
và tự phê bình là sự dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, nhận rõ và nghiêm
khắc tự phê bình đối với những thiếu sót yếu kém vi phạm đạo đức của
mình, kiên quyết sữa chữa khuyết điểm của mình để ngày càng tiến bộ là
công việc thường xuyên của môi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức, chính
quyền, đoàn thể.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Giáo trình đạo đức học. NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội – Năm 2000.
[2]. Về giáo dục đạo đức cách mạng trong cácn bộ đảng viên hiện nay-Thực trạng và giải pháp. NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội – năm 2004
[3].
Giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng viên trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước. NXB Chính trị quốc gia Hà Nội – năm 2004.
Keywords:sach chinh tri,giao trinh dao duc hoc mac lenin,triet hoc k.marx,ts dinh ngoc quyen
==========