Chủ Nhật, 28 tháng 6, 2015

XÂY DỰNG CHẾ ĐỘ TRÁCH NHIỆM CÔNG CHỨC TRONG THỰC THI CÔNG VỤ



XÂY DỰNG CHẾ ĐỘ TRÁCH NHIỆM CÔNG CHỨC TRONG THỰC THI CÔNG VỤ

THS. LÊ NHƯ THANH
Trưởng Ban Thanh tra, Học viện Hành chính

1. Những yếu tố cấu thành chế độ trách nhiệm công chức trong thực thi công vụ.
Một câu hỏi được đặt ra là: nội dung và hình thức của văn bản được gọi là chế độ trách nhiệm công chức trong thực thi công vụ phải như thế nào? Về hình thức, nhất định phải được thể hiện dưới dạng một văn bản quy phạm pháp luật. Về nội dung, phải bao gồm các phần cơ bản sau đây.
Thứ nhất, về đối tượng điều chỉnh
Cần định nghĩa rõä công chức được dùng trong chế độ này. Đây không phải là định nghĩa có tính giáo khoa, cũng không phải là định nghĩa pháp lý chung, nó cần được thống nhất với các định nghĩa trong các văn bản, đạo luật khác. Định nghĩa này chỉ có giá trị đối với chính văn bản này mà thôi, bởi vì mọi quy định về thưởng, phạt, mọi điều kiện được tạo ra, mọi quyền lợi được đề cao… chỉ áp dụng cho những ai thực hiện các công việc như trong văn bản này quy định.
Thứ hai, về những yêu cầu đối với việc thực thi công vụ
Đây là phần giữ vai trò rất quan trọng vì từ nội dung này mà suy ra các phần còn lại, cả về nội dung lẫn mức độ. Trong quan hệ giữa nhà nước mà đại diện là một cơ quan công quyền cụ thể với công chức và nhất là với những tổ chức tư nhân, được cơ quan có thẩm quyền thuê, ủy thác thực hiện cung ứng dịch vụ công, phần yêu cầu này càng trở nên quan trọng. Thông thường trong văn bản quy phạm pháp luật về chế độ trách nhiệm công chức trong thực thi công vụ, phần về yêu cầu đối với thực thi công vụ không thể chi tiết hóa được vì hạng mục công vụ là vô kể. Vì vậy, văn bản chỉ có thể quy định phải có phần này trong quan hệ chỉ huy công vụ nhằm buộc các cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý công chức, công vụ phải cụ thể hóa yêu cầu này. Đồng thời, nêu ra những đòi hỏi đối với phần yêu cầu cụ thể để các cơ quan có thẩm quyền khi giao công vụ cho công chức thực thi phải đạt được.
a. Yêu cầu đối với việc thể hiện hành chính công vụ.
Yêu cầu đối với việc thực thi công vụ cần bảo đảm các yếu tố cụ thể sau đây:
- Toàn diện. Cũng như người mua hàng, không được bỏ quên mặt nào của chất lượng hàng hóa mà không kiểm hóa khi lựa chọn hoặc giao nhận hàng.
- Minh bạch về chủng loại yêu cầu, mức độ yêu cầu, tức là phải cụ thể về loại tiêu chí và lượng của từng tiêu chí nếu có thể lượng hóa.
- Chuẩn xác về thuật ngữ. Chỉ dùng các thuật ngữ có khả năng buộc người nhận việc phải hiểu đúng. Khi dùng các thuật ngữ đa nghĩa, phải có giải thích trực tiếp, rõ ràng để không ai có thể ngụy biện khi hiểu sai.
- Mẫu hóa tối đa các sản phẩm công vụ khi có điều kiện.
- Có khả năng thẩm định, nghĩa là, mọi yêu cầu mà người giao công vụ đặt ra phải có khả năng kiểm định ngay khi thực thi công vụ và sau khi công chức hoàn tất công vụ.
b. Những tiêu chí cụ thể về yêu cầu khi giao công vụ cho công chức.
- Thực hiện đúng thẩm quyền.
- Đạt được mục đích quản lý nhà nước đề ra cho công vụ đó.
- Thỏa mãn được yêu cầu về thời gian.
- Tiết kiệm chi phí quản lý.
- Thỏa mãn được ý nguyện chính đáng của người dân.
- Hình thức kết quả công vụ (giống như sản phẩm cụ thể).
- Có tính văn hóa cao.
- Các yêu cầu đặc thù, tùy theo công vụ cụ thể.
Trên đây là những yêu cầu tối thiểu cần được cơ quan nhà nước quản lý công chức, công vụ nêu rõ trong lệnh công vụ (ở phần yêu cầu đối với thực thi công vụ). Cần lưu ý rằng, mỗi tiêu chí trên đều có nội dung không đơn giản, đòi hỏi người giao công vụ phải tường tận trong việc xác định yêu cầu công việc. Có như vậy mới không bị “lỡ” khi nghiệm thu, khi trả giá, khi thưởng, phạt.
Thứ ba, về những bảo đảm của cơ quan chủ quản công vụ đối với công chức khi thực thi công vụ
Về tổng thể, cơ quan chủ quản công vụ phải bảo đảm các mặt sau đây.
- Kinh phí: đối với người thực thi công vụ là công chức chính ngạch, kinh phí chỉ thuần túy là phương tiện để công chức thực hiện nhiệm vụ. Thông thường, người thi hành công vụ không quan tâm nhiều về kinh phí; điều này xuất phát từ suy nghĩ: có sao làm vậy! Song, đối với đối tượng thực thi công vụ là tổ chức tư nhân, kinh phí không chỉ là phương tiện thực thi công vụ mà còn là lợi ích bản thân họ, là công sá, là lợi nhuận mà họ nhận được từ hợp đồng hành chính này. Chính vì thế, khi xây dựng nội dung phần này cần tính toán kỹ, không để có kẽ hở cho kẻ xấu lợi dụng.
- Các hoạt động phối hợp của nhà nước.
Có nhiều dịch vụ công khi thực hiện phải có sự phối hợp của nhiều đối tượng, kể cả các tổ chức tư nhân. Vì thế, khi giao công vụ, nhà nước phải xác định thật rõ nhiệm vụ của mình trong việc “hợp đồng tác chiến” này. Nếu không Nhà nước sẽ không có quyền “trừng phạt” lỗi công vụ của người được giao, khi mà họ không hoàn thành đúng yêu cầu công vụ.

- Các thông tin quản lý từ phía cơ quan nhà nước.
Đây là một yêu cầu chính đáng của người thực thi công vụ. Trong nhiều hoạt động công vụ, để thực thi được, người thực thi cần được cơ quan nhà nước hỗ trợ thông tin. Những yêu cầu về thông tin phải được đưa vào chế độ trách nhiệm công chức trong thực thi công vụ cụ thể.
Tùy theo độ phức tạp của công vụ, yêu cầu bảo đảm từ phía cơ quan nhà nước có thể còn nhiều hơn. Người thực thi công vụ sẽ đưa ra các yêu cầu này không chỉ về loại mà cả về mức độ khi thực hiện nhiệm vụ. Tất cả những bảo đảm trên dù do cơ quan nhà nước chủ động thực hiện hoặc do người thực thi công vụ yêu cầu đều phải được thể hiện trên văn bản để cả cơ quan nhà nước và công chức phải nghiêm chỉnh chấp hành.
Thứ tư, về quyền hạn của người thi hành trong quá trình thực thi công vụ
Là người giao công vụ, bất kỳ cá nhân, thủ trưởng nào, cơ quan nào cũng phải tính toán đầy đủ mọi cách thức thực thi công vụ và chỉ rõ cho người thực thi các biện pháp để hoàn thành nhiệm vụ. Vì vậy, phần “quyền hạn” trong chế độ trách nhiệm công chức trong thực thi công vụ có vị trí, vai trò rất lớn, đó là: quyền hạn là một điều kiện để người được giao thực thi công vụ có thể thực hiện được công vụ theo đúng yêu cầu và là cơ sở pháp lý để truy xét người thực thi công vụ khi diễn biến công vụ trở lên phức tạp và có thể không hoàn thành yêu cầu đề ra.
Thứ năm, về trách nhiệm của công chức trước kết quả công vụ do họ thực thi
Hiểu theo chiều bảo vệ lợi ích của người bị hại do lỗi công vụ gây ra thì trách nhiệm của người thực thi công vụ chính là “nghĩa vụ” của người thực thi công vụ trong việc bồi thường thiệt hại do lỗi công vụ của họ gây ra. Hiểu theo chiều “trừng phạt” người có lỗi công vụ, thì “trách nhiệm công vụ” chính là “hình phạt và mức phạt” mà người có lỗi phải chịu, do hậu quả của lỗi công vụ của họ gây ra. Dù hiểu theo chiều nào, “trách nhiệm của công chức trong thực thi công vụ” vẫn là phần thiệt hại mà họ phải chịu, do họ có lỗi trong thực thi công vụ.
Trong khuôn khổ của việc xây dựng chế độ trách nhiệm công chức trong thực thi công vụ, có thể nêu lên quan niệm về trách nhiệm trong chế độ trách nhiệm công chức trong thực thi công vụ như sau: trách nhiệm của công chức trong thực thi công vụ là những thiệt hại mà người thực thi công vụ phải chịu do không đáp ứng đầy đủ các yêu cầu đặt ra cho việc thực thi công vụ.
Khi đề cập đến yêu cầu đặt ra cho việc thực thi công vụ, thì yêu cầu chỉ liên quan đến người thực hiện công vụ. Còn bản thân công vụ đó có cần, có đúng hay không là vấn đề khác. Người chịu trách nhiệm trong trường hợp này là người thực thi công vụ mà không phải là người giao công vụ. Khi nói đến yêu cầu đặt ra cho công vụ, thì yêu cầu lại liên quan đến người đề ra và giao công vụ. Việc thực thi công vụ đó có tốt hay không lại là vấn đề khác. Người chịu trách nhiệm trong tình huống này là người đề ra và giao công vụ, mà không phải là người thực thi công vụ. Trong chế độ trách nhiệm công chức trong thực thi công vụ, phần “trách nhiệm” có vai trò, tác dụng như sau:
- Là sự “răn đe” đối với người thi hành công vụ. Do đó, yêu cầu hàng đầu đối với việc quy định trách nhiệm là phải định được mức thiệt hại cao hơn mức lợi cá nhân, khi người thi hành công vụ làm sai yêu cầu đặt ra cho việc thực thi công vụ đó.
- Là biện pháp bảo vệ lợi ích của nhà nước và lợi ích của người thụ hưởng công vụ, khi công vụ có lỗi trong thực thi giúp cho cơ quan nhà nước tránh được tổn thất cả về vật chất và uy tín với nhân dân.
Xuất phát từ bản chất của trách nhiệm là “thiệt hại phải chịu” do có lỗi trong thực thi công vụ, nên có các hình thức trách nhiệm công chức trong thực thi công vụ như sau: thiệt hại về tài sản, cũng có thể gọi là thiệt hại về vật chất. Trong điều kiện phổ dụng của tiền tệ, tài sản đó chính là tiền. Thiệt hại về thân thể, là sự thiệt hại mà người có lỗi trong thực thi công vụ phải gánh chịu, rất có giá trị về răn đe nhưng ít có giá trị đền bù.
2. Phương thức giao công vụ
Thứ nhất, đối với người thực hiện công vụ là công chức “chính ngạch”.
Việc giao công vụ phải được thể hiện thành lệnh công vụ. Đây là căn cứ pháp lý để tiến hành các bước sau của quá trình quản lý công chức trong thực thi công vụ; là căn cứ để truy cứu trách nhiệm khi công vụ không hoàn thành đúng yêu cầu; là nơi thể hiện ý kiến chấp hành hay không chấp hành bằng cách ghi ý kiến phản đối vào lệnh công vụ và ký tên. Người giao công vụ có quyền không giao công vụ khác cho công chức liên quan, nếu cho rằng việc chống lệnh công vụ của công chức đó là “bất tuân thượng cấp”. Người giao công vụ có trách nhiệm trả lời cấp trên nếu bị khiếu kiện, phải chịu kỷ luật nếu đã ra lệnh công vụ không đúng. Người giao công vụ có quyền “trả” công chức, thải hồi công chức do họ chống lệnh công vụ nếu chế định về lao động công chức cho phép.
Nếu thủ trưởng cơ quan, người có quyền giao lệnh công vụ không thực hiện đúng thủ tục giao việc như trên, thì người giao công vụ phải chịu trách nhiệm về mọi sai lầm trong thực thi công vụ của công chức (chịu nhận hình thức kỷ luật tương ứng).
Thứ hai, đối với người thực hiện công vụ là các tổ chức tư nhân, được cơ quan có thẩm quyền ủy thác hoặc thực thi công vụ.
Chọn người thực thi công vụ qua đấu thầu. Kết quả đấu thầu phải được thể hiện thành hợp đồng hành chính. Về bản chất, hợp đồng này giống lệnh công vụ. Vai trò, giá trị pháp lý của hợp đồng hành chính cũng giống như của lệnh công vụ đã nêu trên.

3. Phương thức thanh tra, kiểm tra, giám sát chất lượng công vụ và xử lý vi phạm của công chức trong thực thi công vụ
Người thi hành công vụ, sau khi hoàn thành công vụ hoặc hoàn thành một phần công vụ ghi trong lệnh công vụ hoặc hợp đồng hành chính phải có báo cáo kết quả công vụ theo đúng nội dung nêu trong phần yêu cầu thực thi công vụ. Bản báo cáo này được làm theo mẫu, do người giao công vụ đưa ra.
Người giao công vụ bố trí lực lượng giám sát người thực thi công vụ theo nhiều kênh như: chuyên gia giám sát, thanh tra, kiểm tra.v.v… Những người thực hiện công tác giám sát phải có báo cáo giám sát người thực thi công vụ.
Người giao công vụ tổ chức nghiệm thu kết quả thực thi công vụ với các nội dung sau: thành lập hội đồng nghiệm thu kết quả thực thi công vụ; người thực thi công vụ báo cáo kết quả thực thi công vụ; người chuyên trách giám sát báo cáo giám sát; hội đồng nghiệm thu đánh giá và đưa ra kết luận về kết quả; hội đồng nghiệm thu kết “tội” nếu người thực thi công vụ có lỗi hay có vi phạm, làm trái với yêu cầu theo lệnh công vụ hoặc theo hợp đồng hành chính; người giao công vụ sử dụng kết quả tư vấn của hội đồng nghiệm thu để thực hiện quyền thanh lý hợp đồng. Nếu người thi hành công vụ có dấu hiệu vi phạm ở mức độ nặng, người giao công vụ có thể chuyển giao hồ sơ sang cơ quan tố tụng hành chính.
Tuy nhiên, cơ chế trên trong thực tế được cho là quá “cồng kềnh”, phức tạp. Vì vậy, người giao công vụ có thể lựa chọn. Song, nếu không áp dụng cơ chế này mà người thực thi công vụ có lỗi, người giao công vụ phải “chịu trách nhiệm toàn bộ” hậu quả./.

VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ



VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ

THS. PHAN ANH HỒNG
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh

D
o đặc tính của thị trường là lợi nhuận, nên thị trường điều tiết tất cả các hoạt động cung cấp hàng hóa và dịch vụ có mục đích lợi nhuận hoặc nhằm lợi ích riêng cho bản thân các cá nhân, tổ chức tham gia vào các hoạt động của thị trường. Bản thân thị trường không tự điều chỉnh những tồn tại, yếu kém, thất bại do chính nó gây ra. Nhà nước với vai trò của mình, cần phải điều tiết để giảm thiểu một cách tối đa những yếu kém, thất bại đó.
1. Vai trò của nhà nước trong xây dựng cơ sở hạ tầng và ổn định nền kinh tế vĩ mô
Nền kinh tế của một quốc gia sẽ không thể “cất cánh” trừ phi nó có được nền tảng là một cơ sở hạ tầng vững chắc. Vì thế, nhà nước phải đầu tư cơ sở hạ tầng, ổn định nền kinh tế vĩ mô của đất nước. Đặc điểm của nền kinh tế thị trường là sự bất ổn định do các cuộc khủng hoảng chu kỳ. Sự ổn định kinh tế là điều mà mọi nhà nước đều mong muốn vì nó có lợi cho tất cả mọi người. Do vậy, nhà nước phải duy trì sự ổn định đó. Nhà nước sử dụng các công cụ, chính sách kinh tế vĩ mô để điều tiết nền kinh tế, sử dụng ngân sách để tiến hành đầu tư công cho các công trình; xây dựng các dự án cơ sở hạ tầng dựa trên căn cứ và tiêu chí kinh tế thích hợp nhằm giảm thiểu những gánh nặng chi phí của ngân sách nhà nước và của nền kinh tế; tiến hành việc kiểm soát chi tiêu công và tiền vay của các tập đoàn kinh tế nhà nước để duy trì sự ổn định nền kinh tế. Một thực tế hiện nay là các cơ quan hoạch định chính sách của nhà nước ta phân quyền quá tản mạn nên khó thực hiện được giải pháp đồng bộ trong việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô. Vì vậy, để bảo đảm việc điều tiết nền kinh tế được hiệu quả, đòi hỏi nhà nước phải thực hiện những cải cách cơ bản để đơn giản hoá bộ máy hành chính và phải tiến hành quản lý, kiểm soát chặt chẽ đầu tư công. Với tư cách chủ đầu tư, nhà nước hướng các chương trình đầu tư của mình vào mục tiêu tối đa hoá lợi ích của quốc gia.
2. Vai trò của nhà nước đối với việc điều tiết các yếu tố ngoại vi
Yếu tố ngoại vi là ảnh hưởng do các yếu tố bên ngoài gây nên cho hoạt động của các doanh nghiệp hay cho xã hội. Yếu tố ngoại vi xảy ra khi có sự khác biệt về phí tổn hoặc lợi ích giữa cá nhân và xã hội. Các chi phí hoặc lợi ích này không được tính đến trong hệ thống giá cả và thị trường. Những chi phí ngoại vi cho sản xuất phải tính đến cả sự tắc nghẽn giao thông và ô nhiễm môi trường mà nhà máy hoặc xí nghiệp sản xuất tạo ra... Những yếu tố này gây nên sự giảm sút về phúc lợi của những người dân sống xung quanh hoặc có thể buộc những nhà máy khác gần đó phải tốn kém thêm chi phí để làm sạch nguồn nước bị ô nhiễm mà mình sử dụng trong sản xuất. Ví dụ, trường hợp một doanh nghiệp có thể làm ra một loại sản phẩm rất rẻ nhưng lại làm ô nhiễm môi trường, gây ra sự giảm sút về phúc lợi cho những người khác, thì nhà nước với vai trò của mình cần tiến hành điều chỉnh lại sự bất hợp lý này. Bằng sự can thiệp, nhà nước buộc tất cả những ai hưởng lợi từ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đều phải trả toàn bộ chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ấy.
Nhà nước sử dụng hệ thống thuế, luật pháp, điều lệ, mức hình phạt, thậm chí truy tố trước pháp luật nhằm giảm thiểu ô nhiễm hoặc tạo điều kiện để các tổ chức xã hội thành lập các quỹ bảo vệ môi trường, môi sinh nhằm giám sát các hoạt động của các doanh nghiệp trong việc bảo vệ môi trường và khuyến nghị các biện pháp sản xuất bảo đảm yếu tố bền vững. Ngoài ra, nhà nước sử dụng chính sách quyền sở hữu công khai nguồn tài nguyên, bắt buộc các cá nhân, tổ chức sử dụng nguồn tài nguyên gây ô nhiễm phải chịu chi phí theo giá thị trường. Các khoản thuế hay biện pháp trợ cấp đều được coi là phương thức để nhà nước xử lý những yếu tố ngoại vi. Do toàn bộ chi phí xã hội có ý nghĩa quan trọng quyết định sự phân bố tài nguyên một cách hiệu quả, còn những chi phí tư nhân chỉ quyết định giá hàng hóa, nên vai trò của nhà nước là tạo ra sự cân bằng giữa cá nhân và xã hội thông qua việc điều chỉnh sản xuất thừa hoặc tiêu dùng thừa vào chi phí ngoại vi.
Đối với các lợi ích ngoại vi, cần chú ý tới văn hóa, giáo dục bởi đây là lĩnh vực cần có sự quan tâm và hỗ trợ của nhà nước. Nếu một sản phẩm hoặc một hoạt động của các doanh nghiệp có thể tạo ra được lợi ích ngoại vi, thì nhà nước cần có chính sách hỗ trợ nhằm khuyến khích sản xuất, tiêu dùng loại sản phẩm này sao cho giá trị đích thực các lợi ích ngoại vi được tính đến trong hệ thống giá thị trường. Ở đây, sự can thiệp của nhà nước là cần thiết, vì chi phí ngoại vi có thể dẫn đến sản xuất thừa thì ngược lại, lợi ích ngoại vi lại có thể dẫn đến sản xuất thiếu.
3.  Vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm công bằng, trật tự xã hội
Để thực hiện chức năng phân phối, nền kinh tế thị trường đòi hỏi một loạt thể chế phát triển cao, trong đó có hệ thống luật pháp để chống gian lận bao gồm: hệ thống có liên quan tới những quyền sở hữu, những điều luật về phá sản và khả năng thanh toán, hệ thống tài chính với ngân hàng trung ương và các ngân hàng thương mại để giữ cho việc cung cấp tiền mặt được thực hiện một cách nghiêm ngặt…
Trong nền kinh tế thị trường cả người mua lẫn người bán đều muốn khi đã đồng ý trao đổi thì sự thoả thuận phải được thực hiện. Trong các quan hệ lao động, mối quan hệ giữa người chủ và người làm công, thì người lao động dù với tư cách cá nhân hay tập thể trong các tổ chức hiệp hội cũng đều có sự thoả thuận nhất định về điều kiện làm việc, tiền lương với chủ sử dụng lao động. Nếu không có luật pháp thì các giao dịch trên thị trường trở nên khó có thể thực hiện được.
Nhà nước phải thiết lập và bảo vệ quyền sở hữu tư nhân và quyền được hưởng các lợi ích kinh tế xuất phát từ việc sử dụng quyền sở hữu đó. Nếu không có sự bảo đảm ấy, một số người sẽ gặp những rủi ro nếu đầu tư thời gian và tiền vốn của mình vào lĩnh vực kinh doanh mà rốt cuộc lợi nhuận lại là của người khác. Nhà nước trong vai trò bảo đảm tính công bằng trong các hoạt động xã hội thông qua sự bảo hộ của mình đối với sở hữu tư nhân như nhà máy, công xưởng, kho chứa và các sản phẩm hữu hình khác... đồng thời áp dụng đối với cả các sở hữu liên quan tới trí tuệ, chẳng hạn như sách, bài viết, phim ảnh, hội họa, phát minh, sáng chế, nhãn hiệu, thương hiệu, thiết kế, bào chế thuốc hay chương trình phần mềm... Đây là những can thiệp quan trọng của nhà nước trong việc bảo vệ bản quyền tác giả và qua đó, khuyến khích những hoạt động sáng tạo, khả năng trí tuệ của các nhà khoa học, các nghệ sĩ.
 4. Vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm cạnh tranh và chống độc quyền
Vai trò này của nhà nước thể hiện ở những biện pháp kiểm soát thông qua điều tiết đối với những hãng có khả năng chi phối, kiểm soát các vụ việc sáp nhập công ty nhằm ngăn ngừa khả năng độc quyền hoá các ngành công nghiệp, kiểm soát các hành vi chống cạnh tranh, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh giữa các nhà cung ứng, đồng thời bảo vệ người tiêu dùng chống lại tình trạng độc quyền.
Độc quyền gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới thị trường, gây ra những thiệt hại to lớn cho nền kinh tế. Thông thường, trong nền kinh tế thị trường, tình hình sẽ trở nên nan giải khi một ngành công nghiệp bị chi phối bởi một số rất ít các công ty lớn. Các công ty này có thể cấu kết với nhau thành một tập đoàn hùng mạnh, áp đảo thị trường với mức giá cao, nhằm thu nhiều lợi nhuận, đồng thời khống chế việc thâm nhập vào thị trường của các công ty nhỏ hơn đang cạnh tranh với họ. Để ngăn chặn tình trạng cấu kết, độc quyền và để duy trì cạnh tranh lành mạnh một cách có hiệu quả, hầu hết các nền kinh tế thị trường đều thông qua đạo luật chống độc quyền.
Nhưng, nếu như không xem xét cẩn thận các chính sách của mình, thì nhiều khi sự kiểm soát của chính phủ và chính sách chống độc quyền trên thực tế lại dẫn đến giảm cạnh tranh chứ không phải là khuyến khích cạnh tranh. Các chính sách này bao gồm: giấy phép độc quyền sản xuất một loại hàng hoá và dịch vụ nào đó, thuế, hạn ngạch... hay việc bảo hộ sản xuất trong nước đã dẫn đến hạn chế việc nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ từ nước ngoài. Do vậy, chính sách của nhà nước về vấn đề cạnh tranh không phải không có những bất cập. Tuy nhiên, thực tế cái giá tiềm tàng cho phép các tập đoàn (hoặc một nhóm các doanh nghiệp cấu kết với nhau) giành được vị trí độc quyền trong các ngành công nghiệp chủ chốt là rất cao. Cái giá này đủ lớn để thừa nhận vai trò nhất định của nhà nước trong việc điều tiết, duy trì cạnh tranh thông qua các đạo luật.
Để đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế cũng như để duy trì được tốc độ tăng trưởng, nhà nước phải tính tới tốc độ tăng trưởng nhanh của các ngành công nghiệp có tính cạnh tranh. Các tập đoàn kinh tế của nhà nước sẽ không thể tăng trưởng nhanh nếu không cạnh tranh được với các đối thủ trên thị trường nội địa và quan trọng hơn, trên thị trường quốc tế. Nếu các tập đoàn này chỉ dựa vào vị thế độc quyền trên thị trường nội địa nhờ sự hỗ trợ của nhà nước và không phải chịu áp lực cạnh tranh sẽ không nỗ lực hoặc không chấp nhận rủi ro để tìm kiếm thị trường mới hay cải tiến sản phẩm và quá trình sản xuất; dẫn đến việc lãng phí những nguồn lực khổng lồ và quý báu, trong khi đó lại tạo ra những doanh nghiệp ỷ lại, thụ động và kém cạnh tranh, đặc biệt là trong khu vực nhà nước.
Trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, thương mại quốc tế không chỉ tạo ra sức ép cạnh tranh mà còn là thước đo năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nội địa. Để bảo đảm năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp, nhà nước phải tạo lập “sân chơi” bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế, không thiên vị với bất cứ một loại hình doanh nghiệp nào, tránh tình trạng bảo hộ cho các doanh nghiệp nhà nước.
5. Vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm phúc lợi lợi xã hội
Trong nền kinh tế thị trường, có một số người thu nhập còn hạn chế, trong khi đó, số khác lại có nguồn thu nhập cao. Do vậy, vai trò của nhà nước trong việc phân phối lại thu nhập là rất quan trọng để thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo trong xã hội. Trên thực tế, chính phủ của nhiều quốc gia thực hiện điều này thông qua chính sách thuế, đặc biệt là thuế thu nhập nhằm tạo sự công bằng hơn trong phân phối.
Hiện nay đang tồn tại hai khuynh hướng đối lập nhau. Một là, ủng hộ vai trò của nhà nước trong việc hạn chế tập trung tài sản và duy trì sự lan toả các năng lực kinh tế giữa các chủ sở hữu (ý kiến này dành được nhiều sự ủng hộ của xã hội). Hai là, chương trình phân phối lại của nhà nước thông qua thuế thu nhập sẽ làm cho một số người có thu nhập cao giảm động cơ làm việc để tăng thu nhập, giảm tiết kiệm, giảm đầu tư và do đó sẽ gây tổn hại tới tăng trưởng kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao phúc lợi công cộng, xoá đói, giảm nghèo. Các vấn đề như việc làm, sức khoẻ, bảo hiểm y tế, lương hưu, trợ cấp khó khăn… luôn là những vấn đề cần đến sự quan tâm của nhà nước, để khích lệ được mọi thành phần lao động trong việc tạo ra của cải và tiết kiệm chi dùng những của cải ấy.
Ở nước ta, dù đạt mức thu nhập trung bình thấp (theo tiêu chuẩn quốc tế) nhưng một bộ phận lớn dân cư vẫn đang ở cận ngưỡng nghèo. Những người này có thể rơi xuống dưới ngưỡng nghèo bất kỳ lúc nào khi mà giá lương thực, thực phẩm tăng cao hoặc khi gia đình của họ có người ốm, khi tiền học phí, tiền thuê nhà… đột nhiên tăng cao. Vì vậy, nhà nước cần nỗ lực để bảo đảm rằng những dân cư nghèo cũng được chia sẻ những thành quả của sự phát triển, bằng cách quan tâm tới ba lĩnh vực trọng yếu: giáo dục, y tế và an sinh xã hội. Thực tế, người dân vẫn đang phải gánh chịu một tỷ lệ chi phí y tế cao. Trong khi đó, hệ thống y tế ở tuyến cơ sở nhìn chung còn nhiều yếu kém. Cung cấp lưới an sinh xã hội cho người nghèo là điều kiện cần thiết để bảo đảm mọi người dân được chia sẻ thành quả của phát triển, đồng thời cũng giúp cho sự phát triển trở nên hài hòa và bền vững. Sự kết hợp giữa lưới an sinh xã hội tốt được tài trợ bằng thuế đánh vào các nguồn tài sản mới và các chính sách giúp người dân bảo đảm được sự ổn định và công bằng trong xã hội. Sự công bằng này trở thành điều kiện tiên quyết để có thể duy trì tăng trưởng.
6. Vai trò của nhà nước đối với chính sách tài chính và tiền tệ
Nhà nước trong nền kinh tế thị trường đóng vai trò rất lớn trong việc ổn định nền kinh tế vĩ mô. Một trong những chính sách quan trọng trong việc bình ổn giá cả, giảm lạm phát chính là chính sách tài chính và chính sách tiền tệ. Các chính sách này đúng sẽ tạo ra một thị trường tiền tệ ổn định, được chấp nhận rộng rãi, có khả năng loại bỏ hệ thống giao dịch cồng kềnh, kém hiệu quả và hạn chế được lạm phát. Trong nền kinh tế thị trường, tiền tệ là một loại hàng hóa đặc biệt. Do vậy, mỗi động thái của chính phủ đều tác động trực tiếp đến hệ thống tài chính của thị trường. Chức năng cơ bản của hệ thống tài chính là làm cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư. Trong đó, thị trường là công cụ để khuyến khích tiết kiệm, sau đó dẫn truyền các khoản tiết kiệm này tới các hoạt động đầu tư mang lại suất sinh lời cao. Thị trường tài chính (bao gồm thị trường vốn và thị trường tiền tệ), phụ thuộc rất nhiều vào niềm tin của các tác nhân tham gia thị trường, vào sự minh bạch và đầy đủ về thông tin và vào khả năng thực thi các quy định pháp luật về điều tiết và quản lý thị trường của nhà nước. Hơn thế, đầu tư là một hoạt động rủi ro và phụ thuộc rất nhiều vào các điều kiện thực tế. Chính vì những lý do này mà nhà nước đóng vai trò then chốt trong việc điều tiết thị trường để giảm thiểu những rủi ro có tính hệ thống.
Nếu hoạt động quản lý, điều hành kinh tế vĩ mô của nhà nước thông qua các chính sách tài chính và tiền tệ mà yếu kém, tất yếu sẽ dẫn tới lạm phát. Lạm phát không chỉ là một thách thức về kinh tế, mà còn là một thách thức về chính trị bởi nó tác động trực tiếp tới đời sống của người dân và các doanh nghiệp. Sự ổn định về kinh tế vĩ mô giúp cải thiện hình ảnh và tính chính trực của nhà nước trong con mắt của doanh nghiệp và người dân. Nếu tình trạng lạm phát vẫn tiếp diễn hoặc trở nên xấu đi thì chắc chắn sẽ gây bất lợi cho hoạt động điều hành và uy tín của chính phủ. Vì vậy, trong hoạt động của mình, chính phủ cần phải tái lập sự kiểm soát các chính sách kinh tế vĩ mô.
Nhà nước là công cụ có thể làm dịu đi phần lớn những tác động tiêu cực của hệ thống thị trường. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa nhà nước có thể bao biện, đứng ra làm thay tất cả các hoạt động thị trường, mà chỉ nên chú trọng tới những lĩnh vực thị trường không thể làm được, hoặc mức độ làm được không thể hoàn hảo bằng sự can thiệp của nhà nước. Làm được như vậy thì mới duy trì được sự tăng trưởng và phát triển ổn định, bảo đảm được tính bền vững của thị trường./.

Tài liệu tham khảo:

1. “Tầm quan trọng của quản trị quốc gia VI: các chỉ số thành phần và tổng hợp về quản trị quốc gia 1996-2006”. Tài liệu nghiên cứu số 4280 của Nhóm nghiên cứu Ngân hàng Thế giới, tháng 7/2007.
2. Martin Evans, Ian Gough, Susan Harkness, Andrew Mckay, Đào Thanh Huyền và Đỗ Lê Thu Ngọc, “An sinh xã hội ở Việt Nam lũy tiến đến mức độ nào?”.
4. Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa IX (10/4/2006) về phương hướng phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010.

BỒI DƯỠNG THEO NHU CẦU CÔNG VIỆC - GIẢI PHÁP CẢI TIẾN, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC



BỒI DƯỠNG THEO NHU CẦU CÔNG VIỆC - GIẢI PHÁP CẢI TIẾN, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC

TS. NGUYỄN NGỌC VÂN
Phó Vụ trưởng Vụ Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, Bộ Nội vụ
N
ghị quyết Hội nghị Trung ương năm khoá X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước đã đề ra yêu cầu phải đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là đổi mới cái gì và đổi mới theo hướng nào?
Khi nói đến đổi mới chúng ta phải xác định được hai nội dung: một là, trước đây chúng ta đã làm gì và làm cái đó như thế nào (đối tượng để đổi mới) và để đổi mới chúng ta phải làm gì và làm như thế nào (hướng đổi mới). Để đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng, cần phân tích chỉ rõ sự khác nhau giữa hình thức đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch (TCN) (hình thức đào tạo, bồi dưỡng cơ bản mà chúng ta đã áp dụng trong hơn 10 năm qua) với hình thức bồi dưỡng theo nhu cầu công việc (hình thức huấn luyện cơ bản mà các nước tiên tiến áp dụng và cũng là điều mà chúng ta đang nghiên cứu vận dụng). Chỉ rõ được sự khác nhau giữa chúng, nghĩa là chúng ta đã xác định được mình phải làm gì để đổi mới và làm cái đó như thế nào.
1. Sự khác nhau giữa hình thức đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch và bồi dưỡng (huấn luyện) theo nhu cầu công việc
Kết quả nghiên cứu cũng như thực tế theo dõi hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trong thời gian qua giúp chúng ta tổng kết, rút ra 12 tiêu chí so sánh và cũng là những điểm khác nhau cơ bản giữa hai hình thức đào tạo, bồi dưỡng này, cụ thể:
2. Một số điểm cần lưu ý
Biểu so sánh ở trên, về cơ bản, đã chỉ rõ được sự khác nhau giữa hai hình thức đào tạo, bồi dưỡng cũng như những việc cần phải làm khi áp dụng hình thức bồi dưỡng theo nhu cầu công việc. Ở đây cần phân tích thêm một số nội dung sau:
Một là, điểm khác biệt lớn nhất giữa hai hình thức đào tạo, bồi dưỡng là sự khác biệt về mục tiêu. Chính sự khác biệt này đã chi phối tất cả các nội dung khác, trong đó cần đặc biệt lưu ý đến việc phân loại học viên và thiết kế nội dung chương trình. Hình thức bồi dưỡng theo nhu cầu công việc đòi hỏi phải phân loại học viên theo lĩnh vực công tác. Nội dung bồi dưỡng phải căn cứ vào yêu cầu của lĩnh vực chuyên môn mà người công chức đang làm. Về cơ bản, nội dung chương trình phải trả lời được 3 câu hỏi: ở vị trí công việc đó người công chức phải làm những việc gì? làm việc đó như thế nào? cần có quan hệ phối hợp như thế nào để đạt chất lượng và hiệu quả công việc cao nhất?.
Hai là, việc tổ chức bồi dưỡng theo nhu cầu công việc đòi hỏi thực hiện một quy trình bốn bước, bắt đầu bằng việc xác định nhu cầu, biên soạn chương trình; xây dựng kế hoạch; tổ chức bồi dưỡng và đánh giá kết quả, rút kinh nghiệm cho các khoá sau. (Đối với các khoá đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch thường chỉ thực hiện hai bước: xây dựng kế hoạch và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng). Điều này xuất phát từ tính chất của hai hình thức đào tạo, bồi dưỡng này. Nếu như mục tiêu của hình thức đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch mang tính tự mãn, ít thay đổi và tự triệt tiêu sau khi được đáp ứng, thì mục tiêu của bồi dưỡng theo nhu cầu công việc có tính phát triển và đáp ứng nhu cầu phát triển. Công việc luôn biến đổi, phát triển, nhu cầu bồi dưỡng (huấn luyện) cũng biến đổi theo sự phát triển của công vụ và yêu cầu năng lực của người công chức.
Ba là, về giảng viên và phương pháp bồi dưỡng. Nên mời giảng viên kiêm chức tham gia hướng dẫn các khoá bồi dưỡng theo nhu cầu công việc. Trên thực tế, những người đã, đang làm và có kinh nghiệm trong việc thực hiện những công việc đó mới biết và chỉ dẫn cụ thể được phải làm việc đó như thế nào và làm sao để đạt hiệu quả cao nhất. Đây cũng là việc làm phổ biến ở nhiều nước trên thế giới.
Bốn là, đề cao vai trò, trách nhiệm của cơ quan và thủ trưởng cơ quan sử dụng cán bộ, công chức và bản thân người công chức trong bồi dưỡng theo nhu cầu công việc. Vai trò, trách nhiệm của họ thể hiện trên hai góc độ: xác định chính xác nhu cầu cần được bồi dưỡng và tham gia đánh giá hiệu quả các khoá học. Thực tế cho thấy, chỉ có chính học viên và thủ trưởng trực tiếp của cơ quan sử dụng công chức mới biết được người công chức đang yếu về mặt gì và cần được trang bị thêm những kiến thức và kỹ năng nào. Bên cạnh đó, việc tham gia đánh giá năng lực công chức sau khi đã được bồi dưỡng sẽ góp phần giúp đơn vị tổ chức lớp học không ngừng hoàn thiện chương trình, nâng cao chất lượng giảng dạy; qua đó buộc cơ sở đào tạo, bồi dưỡng có trách nhiệm hơn đối với chất lượng “sản phẩm đầu ra” của mình.
Năm là, việc tổ chức bồi dưỡng theo nhu cầu công việc khó hơn và tốn kém hơn so với đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch. Đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch thực hiện theo các chương trình, tài liệu qui định và đã được biên soạn sẵn. Để triển khai đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch, các nguồn lực thực hiện như giảng viên, bài tập tình huống… cũng đã được chuẩn bị sẵn từ trước. Trong khi đó, những điều kiện như vậy rất hạn chế (hầu như không có) đối với hoạt động bồi dưỡng theo nhu cầu công việc: chương trình, tài liệu phải thường xuyên thay đổi, cập nhật hoặc xây dựng mới cho phù hợp với sự thay đổi, phát triển của công việc; bồi dưỡng theo nhu cầu chủ yếu là sử dụng giảng viên kiêm chức và phải thường xuyên tìm nguồn giảng viên mới, phù hợp với sự thay đổi, cập nhật của chương trình, tài liệu.v.v…
3. Căn cứ và điều kiện để thực hiện bồi dưỡng theo nhu cầu công việc
Thực hiện bồi dưỡng theo nhu cầu công việc là yêu cầu cấp thiết hiện nay. Điều này xuất phát từ tính linh hoạt, tính thiết thực, chất lượng và hiệu quả của nó. Chính vì vậy, Nghị quyết Trung ương năm khoá X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước đã chỉ rõ phải “đổi mới phương thức và nội dung các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức sát với thực tế, hướng vào các vấn đề thiết thực đặt ra từ quá trình thực thi công vụ, nâng cao kỹ năng hành chính…”. Trong gần 5 năm qua các cơ quan liên quan đã tham mưu, chỉ đạo thực hiện theo hướng này. Quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ban hành kèm theo Quyết định số 161/2003/QĐ-TTg  ngày 4/8/2003 của Thủ tướng Chính phủ quy định thực hiện đào tạo bồi dưỡng trang bị kiến thức, kỹ năng quản lý chuyên ngành cho cán bộ, công chức; Quyết định số 40/2006/QĐ-TTg  ngày 15/2/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2006-2010 đề ra yêu cầu “công chức hành chính phải được trang bị kỹ năng, nghiệp vụ theo yêu cầu công vụ”… Đây là những căn cứ pháp lý để thực hiện bồi dưỡng theo yêu cầu công vụ và nhu cầu công việc.
Bên cạnh đó, thời gian qua chúng ta cũng đã có nhiều cố gắng trong việc chuẩn bị các nguồn lực để tổ chức bồi dưỡng theo nhu cầu công việc, bao gồm: tổ chức các khoá đào tạo, bồi dưỡng về phương pháp biên soạn tài liệu theo nhu cầu công việc; tổ chức tập huấn giảng viên về phương pháp giảng dạy hành chính hiện đại; nghiên cứu sửa đổi chế độ sử dụng kinh phí đào tạo, bồi dưỡng tạo điều kiện để áp dụng có hiệu quả hình thức bồi dưỡng theo nhu cầu công việc; tổ chức các hội thảo về bồi dưỡng theo nhu cầu công việc.v.v… Do đó, có thể nói, các căn cứ và điều kiện để tổ chức bồi dưỡng theo nhu cầu công việc cho cán bộ, công chức, về cơ bản đã được chuẩn bị. Nếu hoạt động bồi dưỡng theo nhu cầu công việc nhận được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các cơ quan liên quan, đặc biệt là sự quyết tâm, cố gắng thực hiện của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, chắc chắn trong tương lai gần công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức sẽ có sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng và hiệu quả, góp phần thực hiện tốt yêu cầu mà Nghị quyết Trung ương năm khoá X của Đảng đã đề ra../.