XÂY DỰNG CHẾ ĐỘ TRÁCH NHIỆM CÔNG CHỨC TRONG THỰC THI CÔNG
VỤ
THS. LÊ NHƯ
THANH
Trưởng Ban Thanh tra, Học viện Hành chính
1. Những yếu tố cấu thành chế độ
trách nhiệm công chức trong thực thi công vụ.
Một
câu hỏi được đặt ra là: nội dung và hình thức của văn bản được gọi là chế độ
trách nhiệm công chức trong thực thi công vụ phải như thế nào? Về hình thức,
nhất định phải được thể hiện dưới dạng một văn bản quy phạm pháp luật. Về nội
dung, phải bao gồm các phần cơ bản sau đây.
Thứ nhất,
về đối tượng điều chỉnh
Cần
định nghĩa rõä công chức được dùng trong chế độ này. Đây không phải là định
nghĩa có tính giáo khoa, cũng không phải là định nghĩa pháp lý chung, nó cần
được thống nhất với các định nghĩa trong các văn bản, đạo luật khác. Định nghĩa
này chỉ có giá trị đối với chính văn bản này mà thôi, bởi vì mọi quy định về
thưởng, phạt, mọi điều kiện được tạo ra, mọi quyền lợi được đề cao… chỉ áp dụng
cho những ai thực hiện các công việc như trong văn bản này quy định.
Thứ hai, về
những yêu cầu đối với việc thực thi công vụ
Đây
là phần giữ vai trò rất quan trọng vì từ nội dung này mà suy ra các phần còn
lại, cả về nội dung lẫn mức độ. Trong quan hệ giữa nhà nước mà đại diện là một
cơ quan công quyền cụ thể với công chức và nhất là với những tổ chức tư nhân,
được cơ quan có thẩm quyền thuê, ủy thác thực hiện cung ứng dịch vụ công, phần
yêu cầu này càng trở nên quan trọng. Thông thường trong văn bản quy phạm pháp
luật về chế độ trách nhiệm công chức trong thực thi công vụ, phần về yêu cầu
đối với thực thi công vụ không thể chi tiết hóa được vì hạng mục công vụ là vô
kể. Vì vậy, văn bản chỉ có thể quy định phải có phần này trong quan hệ chỉ huy
công vụ nhằm buộc các cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý công chức, công vụ
phải cụ thể hóa yêu cầu này. Đồng thời, nêu ra những đòi hỏi đối với phần yêu
cầu cụ thể để các cơ quan có thẩm quyền khi giao công vụ cho công chức thực thi
phải đạt được.
a. Yêu cầu đối với việc thể hiện
hành chính công vụ.
Yêu
cầu đối với việc thực thi công vụ cần bảo đảm các yếu tố cụ thể sau đây:
-
Toàn diện. Cũng như người mua hàng, không được bỏ quên mặt nào của chất lượng
hàng hóa mà không kiểm hóa khi lựa chọn hoặc giao nhận hàng.
-
Minh bạch về chủng loại yêu cầu, mức độ yêu cầu, tức là phải cụ thể về loại
tiêu chí và lượng của từng tiêu chí nếu có thể lượng hóa.
-
Chuẩn xác về thuật ngữ. Chỉ dùng các thuật ngữ có khả năng buộc người nhận việc
phải hiểu đúng. Khi dùng các thuật ngữ đa nghĩa, phải có giải thích trực tiếp,
rõ ràng để không ai có thể ngụy biện khi hiểu sai.
-
Mẫu hóa tối đa các sản phẩm công vụ khi có điều kiện.
-
Có khả năng thẩm định, nghĩa là, mọi yêu cầu mà người giao công vụ đặt ra phải
có khả năng kiểm định ngay khi thực thi công vụ và sau khi công chức hoàn tất
công vụ.
b. Những tiêu chí cụ thể về yêu cầu
khi giao công vụ cho công chức.
-
Thực hiện đúng thẩm quyền.
-
Đạt được mục đích quản lý nhà nước đề ra cho công vụ đó.
-
Thỏa mãn được yêu cầu về thời gian.
-
Tiết kiệm chi phí quản lý.
-
Thỏa mãn được ý nguyện chính đáng của người dân.
-
Hình thức kết quả công vụ (giống như sản phẩm cụ thể).
-
Có tính văn hóa cao.
-
Các yêu cầu đặc thù, tùy theo công vụ cụ thể.
Trên
đây là những yêu cầu tối thiểu cần được cơ quan nhà nước quản lý công chức,
công vụ nêu rõ trong lệnh công vụ (ở phần yêu cầu đối với thực thi công vụ).
Cần lưu ý rằng, mỗi tiêu chí trên đều có nội dung không đơn giản, đòi hỏi người
giao công vụ phải tường tận trong việc xác định yêu cầu công việc. Có như vậy
mới không bị “lỡ” khi nghiệm thu, khi trả giá, khi thưởng, phạt.
Thứ ba, về những bảo đảm của cơ
quan chủ quản công vụ đối với công chức khi thực thi công vụ
Về
tổng thể, cơ quan chủ quản công vụ phải bảo đảm các mặt sau đây.
-
Kinh phí: đối với người thực thi công vụ là công chức chính ngạch, kinh phí chỉ
thuần túy là phương tiện để công chức thực hiện nhiệm vụ. Thông thường, người
thi hành công vụ không quan tâm nhiều về kinh phí; điều này xuất phát từ suy
nghĩ: có sao làm vậy! Song, đối với đối tượng thực thi công vụ là tổ chức tư
nhân, kinh phí không chỉ là phương tiện thực thi công vụ mà còn là lợi ích bản
thân họ, là công sá, là lợi nhuận mà họ nhận được từ hợp đồng hành chính này.
Chính vì thế, khi xây dựng nội dung phần này cần tính toán kỹ, không để có kẽ
hở cho kẻ xấu lợi dụng.
-
Các hoạt động phối hợp của nhà nước.
Có
nhiều dịch vụ công khi thực hiện phải có sự phối hợp của nhiều đối tượng, kể cả
các tổ chức tư nhân. Vì thế, khi giao công vụ, nhà nước phải xác định thật rõ
nhiệm vụ của mình trong việc “hợp đồng tác chiến” này. Nếu không Nhà nước sẽ
không có quyền “trừng
phạt” lỗi công vụ của người được giao, khi mà họ không hoàn thành đúng yêu
cầu công vụ.
-
Các thông tin quản lý từ phía cơ quan nhà nước.
Đây
là một yêu cầu chính đáng của người thực thi công vụ. Trong nhiều hoạt động
công vụ, để thực thi được, người thực thi cần được cơ quan nhà nước hỗ trợ
thông tin. Những yêu cầu về thông tin phải được đưa vào chế độ trách nhiệm công
chức trong thực thi công vụ cụ thể.
Tùy
theo độ phức tạp của công vụ, yêu cầu bảo đảm từ phía cơ quan nhà nước có thể
còn nhiều hơn. Người thực thi công vụ sẽ đưa ra các yêu cầu này không chỉ về
loại mà cả về mức độ khi thực hiện nhiệm vụ. Tất cả những bảo đảm trên dù do cơ
quan nhà nước chủ động thực hiện hoặc do người thực thi công vụ yêu cầu đều
phải được thể hiện trên văn bản để cả cơ quan nhà nước và công chức phải nghiêm
chỉnh chấp hành.
Thứ tư, về quyền hạn của người thi
hành trong quá trình thực thi công vụ
Là
người giao công vụ, bất kỳ cá nhân, thủ trưởng nào, cơ quan nào cũng phải tính
toán đầy đủ mọi cách thức thực thi công vụ và chỉ rõ cho người thực thi các
biện pháp để hoàn thành nhiệm vụ. Vì vậy, phần “quyền
hạn” trong chế độ trách nhiệm công chức trong thực thi công vụ có vị trí,
vai trò rất lớn, đó là: quyền hạn là một điều kiện để người được giao thực thi
công vụ có thể thực hiện được công vụ theo đúng yêu cầu và là cơ sở pháp lý để
truy xét người thực thi công vụ khi diễn biến công vụ trở lên phức tạp và có
thể không hoàn thành yêu cầu đề ra.
Thứ năm, về trách nhiệm của công chức
trước kết quả công vụ do họ thực thi
Hiểu
theo chiều bảo vệ lợi ích của người bị hại do lỗi công vụ gây ra thì trách
nhiệm của người thực thi công vụ chính là “nghĩa
vụ” của người thực thi công vụ trong việc bồi thường thiệt hại do lỗi công
vụ của họ gây ra. Hiểu theo chiều “trừng
phạt” người có lỗi công vụ, thì “trách
nhiệm công vụ” chính là “hình
phạt và mức phạt” mà người có lỗi phải chịu, do hậu quả của lỗi công vụ của
họ gây ra. Dù hiểu theo chiều nào, “trách
nhiệm của công chức trong thực thi công vụ” vẫn là phần thiệt hại mà họ
phải chịu, do họ có lỗi trong thực thi công vụ.
Trong
khuôn khổ của việc xây dựng chế độ trách nhiệm công chức trong thực thi công
vụ, có thể nêu lên quan niệm về trách nhiệm trong chế độ trách nhiệm công chức
trong thực thi công vụ như sau: trách nhiệm của công chức trong thực thi công
vụ là những thiệt hại mà người thực thi công vụ phải chịu do không đáp ứng đầy
đủ các yêu cầu đặt ra cho việc thực thi công vụ.
Khi
đề cập đến yêu cầu đặt ra cho việc thực thi công vụ, thì yêu cầu chỉ liên quan
đến người thực hiện công vụ. Còn bản thân công vụ đó có cần, có đúng hay không
là vấn đề khác. Người chịu trách nhiệm trong trường hợp này là người thực thi
công vụ mà không phải là người giao công vụ. Khi nói đến yêu cầu đặt ra cho công
vụ, thì yêu cầu lại liên quan đến người đề ra và giao công vụ. Việc thực thi
công vụ đó có tốt hay không lại là vấn đề khác. Người chịu trách nhiệm trong
tình huống này là người đề ra và giao công vụ, mà không phải là người thực thi
công vụ. Trong chế độ trách nhiệm công chức trong thực thi công vụ, phần “trách
nhiệm” có vai trò, tác dụng như sau:
-
Là sự “răn
đe” đối với người thi hành công vụ. Do đó, yêu cầu hàng đầu đối với việc
quy định trách nhiệm là phải định được mức thiệt hại cao hơn mức lợi cá nhân,
khi người thi hành công vụ làm sai yêu cầu đặt ra cho việc thực thi công vụ đó.
-
Là biện pháp bảo vệ lợi ích của nhà nước và lợi ích của người thụ hưởng công
vụ, khi công vụ có lỗi trong thực thi giúp cho cơ quan nhà nước tránh được tổn
thất cả về vật chất và uy tín với nhân dân.
Xuất
phát từ bản chất của trách nhiệm là “thiệt
hại phải chịu” do có lỗi trong thực thi công vụ, nên có các hình thức trách
nhiệm công chức trong thực thi công vụ như sau: thiệt hại về tài sản, cũng có
thể gọi là thiệt hại về vật chất. Trong điều kiện phổ dụng của tiền tệ, tài sản
đó chính là tiền. Thiệt hại về thân thể, là sự thiệt hại mà người có lỗi trong
thực thi công vụ phải gánh chịu, rất có giá trị về răn đe nhưng ít có giá trị
đền bù.
2. Phương
thức giao công vụ
Thứ nhất, đối với người thực hiện
công vụ là công chức “chính
ngạch”.
Việc
giao công vụ phải được thể hiện thành lệnh công vụ. Đây là căn cứ pháp lý để
tiến hành các bước sau của quá trình quản lý công chức trong thực thi công vụ;
là căn cứ để truy cứu trách nhiệm khi công vụ không hoàn thành đúng yêu cầu; là
nơi thể hiện ý kiến chấp hành hay không chấp hành bằng cách ghi ý kiến phản đối
vào lệnh công vụ và ký tên. Người giao công vụ có quyền không giao công vụ khác
cho công chức liên quan, nếu cho rằng việc chống lệnh công vụ của công chức đó
là “bất
tuân thượng cấp”. Người giao công vụ có trách nhiệm trả lời cấp trên nếu bị
khiếu kiện, phải chịu kỷ luật nếu đã ra lệnh công vụ không đúng. Người giao
công vụ có quyền “trả” công chức, thải hồi công chức do họ chống lệnh công vụ
nếu chế định về lao động công chức cho phép.
Nếu
thủ trưởng cơ quan, người có quyền giao lệnh công vụ không thực hiện đúng thủ
tục giao việc như trên, thì người giao công vụ phải chịu trách nhiệm về mọi sai
lầm trong thực thi công vụ của công chức (chịu nhận hình thức kỷ luật tương
ứng).
Thứ hai, đối với người thực hiện
công vụ là các tổ chức tư nhân, được cơ quan có thẩm quyền ủy thác hoặc thực
thi công vụ.
Chọn
người thực thi công vụ qua đấu thầu. Kết quả đấu thầu phải được thể hiện thành
hợp đồng hành chính. Về bản chất, hợp đồng này giống lệnh công vụ. Vai trò, giá
trị pháp lý của hợp đồng hành chính cũng giống như của lệnh công vụ đã nêu
trên.
3. Phương thức thanh tra, kiểm tra,
giám sát chất lượng công vụ và xử lý vi phạm của công chức trong thực thi công
vụ
Người
thi hành công vụ, sau khi hoàn thành công vụ hoặc hoàn thành một phần công vụ
ghi trong lệnh công vụ hoặc hợp đồng hành chính phải có báo cáo kết quả công vụ
theo đúng nội dung nêu trong phần yêu cầu thực thi công vụ. Bản báo cáo này
được làm theo mẫu, do người giao công vụ đưa ra.
Người
giao công vụ bố trí lực lượng giám sát người thực thi công vụ theo nhiều kênh
như: chuyên gia giám sát, thanh tra, kiểm tra.v.v… Những người thực hiện công
tác giám sát phải có báo cáo giám sát người thực thi công vụ.
Người
giao công vụ tổ chức nghiệm thu kết quả thực thi công vụ với các nội dung sau:
thành lập hội đồng nghiệm thu kết quả thực thi công vụ; người thực thi công vụ
báo cáo kết quả thực thi công vụ; người chuyên trách giám sát báo cáo giám sát;
hội đồng nghiệm thu đánh giá và đưa ra kết luận về kết quả; hội đồng nghiệm thu
kết “tội” nếu người thực thi công vụ có lỗi hay có vi phạm, làm trái với yêu
cầu theo lệnh công vụ hoặc theo hợp đồng hành chính; người giao công vụ sử dụng
kết quả tư vấn của hội đồng nghiệm thu để thực hiện quyền thanh lý hợp đồng.
Nếu người thi hành công vụ có dấu hiệu vi phạm ở mức độ nặng, người giao công
vụ có thể chuyển giao hồ sơ sang cơ quan tố tụng hành chính.
Tuy
nhiên, cơ chế trên trong thực tế được cho là quá “cồng
kềnh”, phức tạp. Vì vậy, người giao công vụ có thể lựa chọn. Song, nếu
không áp dụng cơ chế này mà người thực thi công vụ có lỗi, người giao công vụ
phải “chịu
trách nhiệm toàn bộ” hậu quả./.