KẾT
QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LỆNH ƯU ĐÃI NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG NHỮNG NĂM VỪA QUA VÀ
NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP TRONG THỜI GIAN TỚI
BÙI HỒNG LĨNH[1]
T
|
hực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công với cách
mạng là vấn đề có ý nghĩa chính trị, xã hội to lớn, một nguyên tắc Hiến định
được ghi nhận ở Điều 67- Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước (năm 1991), Đảng ta cũng khẳng định rõ:
“Không chờ kinh tế phát triển cao mới giải quyết các vấn đề xã hội mà ngay
trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển, tăng trưởng kinh tế phải
gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội”. Nghị quyết Đại hội lần thứ X của
Đảng tiếp tục khẳng định: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng bước và từng chính sách phát triển. Thực hiện tốt các chính sách xã hội
trên cơ sở phát triển kinh tế. Thực hiện tốt các chính sách ưu đãi người có
công với nước, vận động toàn xã hội tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa,
nâng cao mức sống về mặt vật chất, tinh thần của người có công...”.
Thể chế hoá đường lối của Đảng, các qui định
của Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước, năm 1994, uỷ ban thường vụ Quốc hội đã
ban hành Pháp lệnh Ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt
sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ
cách mạng. Sau 10 năm thực hiện, ngày 29/06/2005, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban
hành Pháp lệnh số 26/2005/PL-UBTVQH11
sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh cũ (năm 1994) về ưu đãi người có công với cách mạng.
Sau hơn 3 năm đi vào cuộc sống, thành tựu đạt được trong lĩnh vực ưu đãi xã hội
là rất lớn nhưng cũng còn không ít những vướng mắc, tồn tại, thách thức ở phía
trước…
Thành
tựu sau 3 năm thực hiện Pháp lệnh
Có thể khẳng định, thành tựu nổi bật và đã
trở thành định hướng, phương châm hành động, đó là: người có công với cách mạng
được toàn xã hội quan tâm chăm lo về vật chất, tinh thần; được trân trọng, tôn
vinh, biết ơn, đền ơn trả nghĩa…. Ưu đãi xã hội đối với người có công là tình
cảm và trách nhiệm của Nhà nước và của toàn xã hội. Đây là yếu tố thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội, góp phần ổn định chính trị xã hội; thúc đẩy sự
nghiệp đổi mới với tiến trình hội nhập và phát triển.
Pháp lệnh ra đời với nhiều mục tiêu, đó là:
mở rộng phạm vi, đối tượng điều chỉnh, mở rộng diện đối tượng, bổ sung chế độ
ưu đãi; quy định điều kiện, tiêu chuẩn xác nhận người có công phù hợp với thực
tiễn của các thời kỳ cách mạng khác nhau, phù hợp với tiến trình cải cách thủ
tục hành chính; quy định chế độ trợ cấp mới gắn liền với lộ trình cải cách
chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, đạt yêu cầu tương ứng với mức tiêu dùng
bình quân của toàn xã hội; quy định cụ thể trách nhiệm, thẩm quyền của các bộ,
ngành, cơ quan chức năng trong quản lý nhà nước về ưu đãi xã hội; quy định chế
độ khen thưởng, xử lý vi phạm đầy đủ, chính xác, phù hợp với hoạt động cải cách
tư pháp, hoạt động xây dựng luật pháp của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa...
Để thực hiện mục tiêu đã
đề ra, chuyển tải Pháp lệnh vào đời sống xã hội, hàng loạt văn bản qui phạm ra
đời, từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về ưu đãi xã hội, như: các Nghị định số 54/2006/NĐ-CP,
Nghị định số 45/2006/NĐ-CP,
Nghị định số 16/2007/NĐ-CP,
Nghị định số 105/2008/ NĐ-CP, Nghị định số 89/2008/NĐ-CP,
Nghị định số 38/2009/NĐ-CP…
của Chính phủ cùng nhiều thông tư của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và
các thông tư liên tịch khác.
Một thành tựu khá nổi
bật là chế độ trợ cấp ưu đãi xã hội đã có sự đổi mới căn bản. Gắn liền với lộ
trình cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, mức trợ cấp ưu đãi xã
hội được điều chỉnh trên cơ sở mức tiêu dùng bình quân của toàn xã hội, phù hợp
với đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trợ cấp ưu
đãi xã hội 3 năm qua có 3 lần điều chỉnh. Đây là một minh chứng rõ nét nhất sự
quan tâm, trách nhiệm của Nhà nước, nỗ lực đảm bảo nguồn lực tài chính chi cho
lĩnh vực này. Năm 2007, nguồn lực tài chính dành riêng ưu đãi xã hội là 13.000
tỷ đồng, năm 2008 là 15.000 tỷ đồng, năm 2009 là 17.000 tỷ đồng (riêng năm
2009, cùng với nguồn lực tài chính từ địa phương, nguồn huy động từ xã hội hóa,
chi ưu đãi xã hội đối với người có công lên tới 20.000 tỷ đồng).
Nhìn chung, chế độ ưu đãi người có công đã
được xây dựng và thực hiện khá toàn diện, ngoài trợ cấp còn có chế độ chăm sóc
sức khỏe, cải thiện nhà ở, ưu đãi trong y tế, giáo dục đào tạo, sản xuất kinh
doanh, tạo việc làm; chế độ ưu đãi đối với con của người có công đang theo học
ở nhà trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân; người có công đang hưởng trợ cấp
thường xuyên (hoặc đã mất) thì con của họ đang theo học ở nhà trường được hưởng
chế độ trợ cấp mỗi năm một lần mua đồ dùng, sách vở, dụng cụ học tập, được miễn
giảm học phí và các khoản đóng góp khác, học sinh học ở các trường chuyên
nghiệp, dạy nghề, dân tộc nội trú được hưởng trợ cấp hàng tháng. Người có công
(đặc biệt là người hoạt động kháng chiến không hưởng lương, bảo hiểm xã hội -
khoảng 2,1 triệu người) được Nhà nước cấp thẻ bảo hiểm y tế với mức 3% lương
tối thiểu. Nguồn ngân sách chi bảo hiểm y tế, ưu đãi trong giáo dục đào tạo đối
với người có công và thân nhân của họ mỗi năm lên tới trên 1.000 tỷ đồng… Cùng
với chế độ trợ cấp thường xuyên hàng tháng, chế độ ưu đãi ngoài trợ cấp (về
kinh tế xã hội) đã góp phần nâng cao mức sống người có công, đảm bảo tính toàn
diện, đồng bộ trong ưu đãi xã hội.
Bên cạnh đó, vấn đề xã hội hóa và phong trào
chăm sóc người có công với cách mạng được đẩy mạnh, kế thừa và phát huy đạo lý
tốt đẹp của dân tộc “uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người
trồng cây”. Năm chương trình tình nghĩa (nhà tình nghĩa; phụng dưỡng
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng; chăm sóc cha mẹ liệt sĩ già yếu cô đơn; con liệt sĩ mồ
côi; xã (phường) làm tốt công tác thương binh liệt sĩ) tiếp tục được duy trì,
đi vào chiều sâu, có hiệu quả thiết thực, góp phần ổn định chính trị xã hội,
làm nên nét đẹp, tính ưu việt của đời sống xã hội, nền văn hóa Việt Nam.
Một
số tồn tại, vướng mắc
Bên cạnh những thành tựu nêu trên, sau 3 năm
thực hiện Pháp lệnh, cả trong hoạch định và tổ chức thực thi cũng còn nhiều tồn
tại, vướng mắc.
Về hệ thống chính sách, pháp luật: hiện có 3
Pháp lệnh điều chỉnh lĩnh vực ưu đãi xã hội (Pháp lệnh ưu đãi người có công với
cách mạng, Pháp lệnh qui định danh hiệu Nhà nước Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, Pháp
lệnh số 35/2007/PL/UBTVQH11 sửa đổi bổ sung một số điều về Pháp lệnh Ưu đãi
người có công với cách mạng). Hệ thống văn bản hướng dẫn thực hiện khá đồ sộ, luôn thay đổi, thiếu tính thống
nhất, thiếu chặt chẽ và nhiều nội dung cần được thể chế; việc thực thi cũng
chưa thật đồng bộ. Các trình tự, thủ tục ưu đãi về đất đai, nhà ở, thuế, tín
dụng, y tế, giáo dục đào tạo…chưa được thể chế hoá kịp thời để sớm tổ chức thực
hiện trong cuộc sống. Một số chính sách, pháp luật hiện hành cũng còn nhiều nội
dung cần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Chẳng hạn như, cần sớm có văn bản hướng
dẫn xác nhận, thực hiện ưu đãi người hoạt động cách mạng trước năm 1945, người
hoạt động cách mạng từ 1/1/1945 đến trước tổng khởi nghĩa 19/8/1945; văn bản
xác nhận thương binh, liệt sĩ trong điều kiện hoàn cảnh mới (đấu tranh chống
tội phạm, dũng cảm thực hiện công việc cấp bách, nguy hiểm phục vụ quốc phòng
an ninh, dũng cảm cứu tài sản của Nhà nước và nhân dân, thương binh chết do vết
thương tái phát…); văn bản qui định chi tiết, hướng dẫn thực hiện các Điều 34 đến Điều 41 của Pháp
lệnh số 35/2007/PL/UBTVQH11 liên quan đến trách nhiệm, chức năng của các bộ,
ngành…Một số chế độ ưu đãi về giáo dục đào tạo, về chăm sóc sức khỏe, trang cấp
dụng cụ chỉnh hình phục hồi chức năng, chế độ trợ cấp…. cũng cần phải sửa đổi,
bổ sung để việc ưu đãi xã hội đồng bộ, đầy đủ và có tính khoa học, hợp lý hơn…
Ngoài ra, vấn đề xã hội hóa công tác chăm sóc
người có công (tăng cường nguồn lực đầu tư, đổi mới cơ chế chính sách, huy động
nguồn lực xã hội) và phong trào đền ơn đáp nghĩa 3 năm qua có xu hướng giảm.
Quĩ Đền ơn đáp nghĩa mỗi năm chỉ đạt được mức dưới 150 tỷ đồng, phong trào đền
ơn đáp nghĩa chưa thực sự phát triển. Trong số gần 1,7 triệu hộ gia đình người có công vẫn còn xấp
xỉ 40% số hộ có mức sống nghèo và cận nghèo (gần 10% số hộ nghèo, gần 30% số hộ
diện cận nghèo).
Nhiệm
vụ và giải pháp
Nhằm phát huy những kết quả đã đạt được, khắc
phục những tồn tại, hạn chế nêu trên, cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ và giải
pháp sau đây:
1. Tiếp tục hoàn thiện chính sách ưu đãi người
có công, nghiên cứu xử lý những bất hợp lý trong quá trình thực hiện, nhất là
những vấn đề trực tiếp liên quan đến đời sống người có công, phấn đấu từng bước
hoàn thiện hệ thống chính sách về lĩnh vực người có công.
2. Đẩy mạnh công tác giải quyết tồn đọng về
xác nhận người có công qua các thời kỳ. Triển khai thực hiện đồng bộ chế độ ưu
đãi nhằm nâng cao mức sống người có công để bản thân và gia đình họ có mức sống
bằng và cao hơn mức sống trung bình của xã hội.
3. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thường
xuyên, xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm trong quá trình thực hiện bảo đảm
chính sách được thi hành công bằng, chính xác. Đổi mới công tác quản lý nhà
nước về ưu đãi xã hội, chú trọng ba nội dung sau: củng cố tổ chức bộ máy; cải
cách hành chính theo hướng thủ tục gọn nhẹ, đơn giản, chính xác, chống phiền
hà, chống tiêu cực; giải quyết kịp thời những bức xúc, điểm nóng trong lĩnh vực
người có công, tăng niềm tin của nhân
dân đối với chính quyền và chế độ.
4. Củng cố, nâng cấp các cơ sở điều dưỡng,
nuôi dưỡng thương, bệnh binh, người có công và các cơ sở đào tạo nghề để tạo
việc làm và thu nhập ổn định cho con em các đối tượng chính sách người có công.
5. Quản lý, tu bổ, nâng cấp các công trình
ghi công liệt sĩ để tỏ lòng biết ơn của đất nước với những người đã hy sinh.
6. Mở rộng các mô hình xã hội hoá chăm sóc
người có công, đồng thời động viên sự vươn lên của bản thân, gia đình chính
sách trong thời kỳ hội nhập và phát triển, tiếp tục phát huy truyền thống cách
mạng trong thời kỳ mới.
7. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền các chủ
trương chính sách của Đảng, Nhà nước đối với người có công. Sơ kết, tổng kết,
nhân rộng các điển hình tiên tiến, biểu dương, khen thưởng kịp thời những tập
thể và cá nhân có nhiều thành tích trong công tác thực hiện chính sách người có
công./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét